Vị thế pháp lý của chữ Quốc ngữ Chữ Quȏ́c ngữ

Tuy chữ Latinh tiếng Việt thường được gọi là "chữ Quốc ngữ" và đang là bộ chữ viết phổ thông thường dùng trên thực tế cho tiếng Việt hiện nay, nhưng về bản chất thì chữ Quốc ngữ vẫn là chữ Latinh, mang tính chất ngoại lai và không phải do người Việt sáng tạo ra. Do vậy không có bất kỳ văn bản pháp lý nào ở cấp nhà nước Việt Nam quy định hay công nhận chữ Latinh nói chung và chữ Quốc ngữ nói riêng là "Quốc tự" (chữ viết quốc gia) hay "văn tự chính thức".[50] Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương I điều 5 mục 3 ghi là "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt", khẳng định tiếng ViệtQuốc ngữ nhưng không đề cập tới "Quốc tự".[51]

Ở các văn bản thuộc lĩnh vực hành chính, tiếng Việt thường được viết bằng chữ Quốc ngữ theo "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục, nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984[27]. Ngoài lĩnh vực này, không có quy định nào yêu cầu người Việt trong đời sống hiện nay chỉ được viết tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ và cấm viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hiến pháp chương I điều 5 mục 3 cũng ghi "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình", nên nếu có bộ luật hay quy định nào đó được đặt ra để cấm người Việt hiện tại viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa thì sẽ là một bộ luật vi hiến.

Dù chữ Latinh cho tiếng Việt đã được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên của Bồ Đào NhaÝ vào thế kỷ XVII, nhưng sau 200 năm thì tiếng Việt vẫn được viết phổ biến bằng chữ Hánchữ Nôm. Chính quyền phong kiến cũng không có luật công nhận văn tự chính thức, nên lúc đó vị thế của chữ Hánchữ Nôm cũng chưa phải là Quốc tự. Tuy vậy chữ Nôm khi đó cũng được gọi là "Quốc âm", "Quốc ngữ". Người Việt cũng không có lý do gì để thay đổi chữ viết phổ biến, nên chữ Latinh cho tiếng Việt khi đó thường được dùng trong phạm vi xung quanh những nhà truyền giáo.

Phải đến thời kỳ Pháp thuộc ở cuối thế kỷ XIX, sau sự xâm lược của Thực dân Pháp, chính quyền Đông DươngNam Kỳ đưa ra những quy định pháp lý bảo hộ chữ Latinh cho tiếng Việt thay thế chữ Hán và chữ Nôm, để khiến tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp cũng sử dụng chữ Latinh. Đồng thời chữ Latinh cho tiếng Việt cũng bắt đầu được gọi là chữ Quốc ngữ. Sang thế kỷ XX, mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ ra Bắc Kỳ.[22] Từ đó tiếng Việt được viết phổ biến bằng chữ Latinh. Người Việt cũng dần bị "mù chữ" đối với chữ Hán và chữ Nôm.

Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008,[52][53] thì Hội ra đời ngày 25/5/1938. Ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳngười Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội, và Hội cho rằng đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng Việt. Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở Việt Nam gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 - 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí [52].

Theo Tiến sĩ Trần Trọng Dương, sắc lệnh số 20 do Võ Nguyên Giáp ký năm 1945 "có quy định về việc sử dụng chữ Quốc ngữ và coi đó là chữ viết của nước mình."[54]